18 Aug 2011

Hoa Mắt Với Chuyện Hoa-Mỹ

Hoa Mắt Với Chuyện Hoa-Mỹ

2011-08-16


Nguyễn Xuân Nghĩa - Người Việt ngày 20 110815

"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"
Nguồn: http://www.dainamax.org/2011/08/hoa-mat-voi-chuyen-hoa-my.html

Sức nặng tương đối – nhìn từ giác độ khác....




Có những ngày mà chúng ta bần thần tự hỏi là "chuyện gì đang xảy ra vậy?" Có lẽ thời sự tuần qua là trường hợp ấy. Khi bần thần như vậy, cách hay nhất là... lùi lại để khỏi bị cuốn vào cơn lốc. Lùi lại rồi mới hiểu vì sao lại bị hoa mắt! Đương thấy tối thì hãy nói chuyện tương đối, và tỉnh táo đặt mọi sự lên bàn cân....

Biết đâu sẽ chẳng sáng ra khi thấy Thiên triều Trung Quốc ra mặt hù họa!


***


Chính trường hóa dại làm thị trường hoảng loạn


Số là kinh tế Hoa Kỳ bị suy trầm từ Tháng 12 2007 đến Tháng Bảy 2009.

Vài đề nghị về cách dùng chữ: "Suy trầm" (recession) là khi đà tăng trưởng sản xuất sút giảm liền trong hai tam cá nguyệt (quý). Nặng hơn thì gọi là "suy thoái" (depression); nặng hơn nữa và kéo dài lan rộng thì gọi là "khủng hoảng" (crisis). Nhớ lại thì đà tăng trưởng quy ra toàn năm của Quý II 2007 là 3,6%, Quý III là 3,0%, đến Quý IV chỉ còn 1,7%. Vì vậy mới gọi là suy trầm, theo định nghĩa của cơ quan nghiên cứu tư nhân có thẩm quyền đo đếm về suy trầm (NBER).

Thời ấy, mọi người đều nói theo các chính khách, rằng Mỹ bị khủng hoảng chưa từng thấy, kể từ vụ Tổng khủng hoảng 1929-1933. Chỉ vì năm 2008 đó có bầu cử nên các chính trị gia được mùa dọa nạt để kiếm phiếu.

Lùi lại mà nhìn thì qua bốn năm bảy tháng của trận Tổng khủng hoảng 29-33, sản lượng Mỹ bị sụt 26,7% với thất nghiệp 24,9% vào năm 1933. Trong vụ "Tổng suy trầm 2008-2009", sản lượng bị sụt 5,1%, với thất nghiệp cao nhất là 10,1% vào Tháng 10 2009.

Nói về tương đối thì vụ suy trầm này chưa bằng hai tai họa kinh tế năm 1937, năm 1945. Và chỉ mấp mé các đợt suy trầm năm 1972-1975, năm 1980, hoặc 1981-1982, khi lạm phát vượt 10%, lãi suất gia cư (mortgage) lên quá 20% và thất nghiệp có lúc lên tới 10,8%. Thành ra, dù có là nạn nhân của suy trầm ta cũng không quên rằng các thế hệ đi trước còn khốn đốn gấp bội.

Nhưng, nhồi trong một chu kỳ suy trầm nhẹ là vụ khủng hoảng tài chánh tháng Chín năm 2008. Và nhồi trong vụ khủng hoảng tài chánh đó là cuộc bầu cử năm 2008.

Từ đó, chính trường Mỹ hóa dại và gây nhiều tai họa kinh tế khác cho đến cao điểm là sự hoảng loạn tuần qua.

Cái "nhân" có thể là nỗi lo kinh tế lại bị suy trầm sau hai năm phục hồi uể oải, trong khi khủng hoảng Âu Châu chưa tan mà còn lan rộng. Cái "duyên" có thể là vụ công trái Mỹ bị Standard & Poor's hạ từ hạng "thượng đẳng" AAA xuống hạng "có giá trị" là AA+ vào mùng năm Tháng Tám. Lý do bị hạ điểm chính là tình trạng hóa dại của chính trường với trận đánh về ngân sách kéo dài sáu tháng, bất chấp lời cảnh báo mà S&P nêu ra hôm 18 Tháng Tư, khi hạ điểm trái phiếu của Mỹ xuống hạng AAA "tiêu cực".

Từ Thứ Hai mùng tám, thị trường qua một tuần hoảng loạn đến Thứ Sáu 11 mới nguôi. Trong ba ngày đầu tuần, chỉ số Kỹ nghệ Dow Jones (DJIA) tăng hay giảm 400 điểm nội trong ngày, là điều chưa từng thấy. Cả thế giới đã chứng kiến và bị ảnh hưởng bởi tình trạng hoảng loạn đó, khiến Bắc Kinh thừa cơ lên lớp thiên hạ. Và tắt đèn dẹp loạn ở nhà.

Đấy là lúc chúng ta nhìn sang chuyện thứ hai, nếu đừng bị cuốn trong cơn bão tâm lý.


***




Trái táo và thùng dầu


Từ sau Thế chiến II, Hoa Kỳ bị nhiều trận suy trầm nghiêm trọng mà rồi vẫn đứng dậy. Dân Mỹ vốn ưa hốt hoảng nhưng vẫn lạc quan và tự tin vùng lên. Vụ thị trường phát cuồng khiến ta có thể không chú ý một biến cố có ý nghĩa về khả năng vùng dậy.

Tuần qua, lần đầu tiên, tài sản của công ty Apple Inc. vượt qua tổ hợp Exxon Mobile thành doanh nghiệp lớn nhất Hoa Kỳ và thế giới. Hiện nay, hai doanh nghiệp đang ngang ngửa trong cuộc đua với khoảng 350 tỷ Mỹ kim tài sản: ta nhân trị giá cổ phiếu trong ngày với số cổ phiếu thì ra trị giá tài sản theo mệnh giá của thị trường (xin tạm gọi là "kết giá thị trường" để dịch chữ market capitalization).

Nhìn lại thì Thứ Năm 11 vừa qua, chẳng có biến cố gì làm tài sản của Apple bỗng lên giá 36 tỷ và đoạt ngôi vô địch của Exxon Mobile! Nhưng nếu lùi lại một chút thì ta có thể nhìn ra một chuyển động lớn của Hoa Kỳ, và thế giới sau này.

Sau khi xoá chữ "Computer" trong thương hiệu Apple Computer Inc. Apple đã mở rộng lãnh vực kinh doanh và chuyên trị về một loạt những sản phẩm xin gọi là "trí tuệ trong mảnh nhựa". Exxon hay các tổ hợp dầu khí hoạt động với rất nhiều thiết bị tốn kém trải rộng khắp nơi, mà sản phẩm chủ yếu là dầu thô và khí đốt. Đây là loại sản phẩm bị hủy diệt sau khi được tiêu thụ. Sản phẩm của Apple chủ yếu là trí tuệ, là sáng kiến. Với đặc tính là sau khi được sử dụng và tiêu thụ thì vẫn tồn tại - mà lại còn có giá trị hơn!

Từ hai chục năm trước, ta nghe nói đến nền "kinh tế tri thức". Apple và hàng loạt công ty mới xuất hiện sau này như Yahoo, Google, Facebook, v.v... đã minh chứng hình thái kinh tế ấy. Và làm thay đổi lề lối sinh hoạt, từ học hỏi, suy nghĩ, giải trí đến sản xuất của nhân loại....

Nói đến chuyện đứng dậy, nếu theo dõi thì ta biết những hoạn nạn của Apple sau khi xuất hiện tại Cupertino ở miền Bắc California vào năm 1976, khi nước Mỹ... vừa bại trận tại Việt Nam.

Mà khu vực này không chỉ có "phép lạ" Apple. Nhìn lại thì nhiều thành tựu kinh doanh từ Thung lũng Silicon này còn là đóng góp của di dân, đến từ Âu Châu, Á Châu hoặc Trung Đông. Nhân vật kỳ tài của Apple, Steve Jobs, là người gốc Syria được một gia đình Mỹ nhận làm con nuôi... Lập ra công ty rồi bị đuổi rồi quay về cứu lấy trái táo. Được đối thủ là Microsoft cho vay 150 triệu, Apple thoát xác và mở ra chân trời khác.

Mà cái gì khiến những di dân ấy thành nhân tài của Hoa Kỳ? Điều kiện gì giúp họ phát huy trí tuệ và cống hiến những sản phẩm hay dịch vụ mà trước đó thị trường và giới tiêu thụ chưa nghĩ ra? Nếu còn ở lại cố quốc, họ có cơ hội như vậy không?

Những câu hỏi ấy mới đáng nêu ra trong cơn hốt hoảng.

Thành thử, giữa những bất cập của chính trường làm thị trường hoảng loạn, xã hội Mỹ vẫn tiếp tục vận hành và tạo ra phép lạ. Sau này, nếu có nhớ lại trận khủng hoảng vừa qua thì ta thấy... hào hứng như khi Tổng thống Richard Nixon bị đàn hặc và từ chức vì vụ Watergate!

Nhìn cho gần trong từng gia đình, phép lạ ấy là khi trẻ em Mỹ đang sống trong một thế giới khác, hoàn toàn thoải mái với đồ chơi và học cụ điện tử. Chúng vận dụng tri thức theo những quy luật mà nhiều khi ta chỉ mường tượng ra đã chóng mặt. Từ đó, các thế hệ tiếp nối còn làm ra nhiều điều kỳ diệu hơn. Một hình thái sinh hoạt khác đã xuất hiện.

Mà trong thế giới đó của Mỹ, không có chuyện... kiểm soát Internet, đầu cơ kiến thức! Hoặc đàn áp đối lập. Ta trở lại với chủ nợ số một của Hoa Kỳ. Trung Quốc!



***





Chuôi dao nằm đâu?


Chỉ vì trong khi nước Mỹ hoảng loạn chuyện nợ nần thì Bắc Kinh – và cả thế giới – cứ nói đến việc Hoa Kỳ bị nhập siêu khi buôn bán với Trung Quốc. Nhờ vậy mà các đấng con trời tích lũy được khối dự trữ ngoại tệ trị giá tương đương với 3.200 tỷ đô la và là chủ nợ số một của Mỹ.

Với kho bạc ấy, tính đến Tháng Bảy, Bắc Kinh cho Hoa Kỳ vay 1.160 tỷ bằng cách mua Công khố phiếu Mỹ. Nếu kể thêm các công ty bình phong khác, số tiền cho vay có thể lên tới 1.200 tỷ. Ngoài ra còn nhiều ngả đầu tư khác. Vì thế Bắc Kinh có thể làm chủ một lượng tài sản Mỹ trị giá tổng cộng là 2.000 tỷ. Một số nguồn tin khác nói đến tỷ lệ 70% của số dự trữ 3.200 tỷ này (2.240 tỷ). Trong khi ấy, người dân Trung Quốc vẫn nghèo mạt.

Nhìn từ bên ngoài, ta nên xoay ngược bài toán tích/tiêu hay tá/thải của trương mục kế toán này.

Dân Mỹ nổi tiếng là ưa tiêu thụ và mang tiếng là ưa mua sản phẩm "chế tạo tại Trung Quốc" thật ra lại chuộng hàng... nội hóa! Năm 2010, nhập cảng chỉ chiếm 16% Tổng sản lượng Nội địa GDP: 84% còn lại là sản phẩm "Made in USA".

Trong năm qua, số tiêu thụ của tư nhân Mỹ dành cho hàng nội hóa lên tới 88,5%. Chỉ có 11,5% là hàng nhập. Mà hàng hóa hay dịch vụ "Made in China" chỉ bằng 1/4 tổng số nhập cảng đó - là 2,7% mà thôi.

Về kế toán mà nói, khi bút ghi là mua 11,5% hàng ngoại, người ta kể luôn mọi loại chi phí như vận chuyển, quảng cáo, phân phối và bán lẻ, tính chung lên tới 4,2%, thật ra do doanh nghiệp Mỹ thực hiện. Phí tổn nhập cảng thật chỉ lên tới 7,3%: khi mua hàng ngoại, giới tiêu thụ Mỹ chi cho doanh nghiệp Mỹ 36% của ngạch số 11,5% nói trên.

Với hàng "Made in China" thì còn ly kỳ hơn, vì Thiên triều ngửi hoa giả.

Trong số 2,7% gọi là "mua của Trung Quốc", có 55% là trả cho doanh nghiệp và công nhân Mỹ đã chở hàng về và quảng cáo rồi phân khối khắp nơi: khi mua một đô la hàng Trung Quốc, có 55 xu là vào túi doanh nghiệp Mỹ nhận hàng bên Mỹ. Thiên triều chỉ xuất cảng được 1,2% số hàng tiêu dùng của dân Mỹ. Mà việc sản xuất ra lượng hàng ấy ở tại gốc thì còn có sự tham gia của... nhà đầu tư Mỹ tại Hoa lục. Con số là bao nhiêu thì ta chưa rõ, có nhiều nơi nói đến tỷ lệ 60%....

Dù có kể thêm các loại bán chế phẩm mà Hoa Kỳ phải nhập từ Trung Quốc để sản xuất ra hàng "Made in USA" thì sức bán tổng cộng của Thiên triều chỉ lên tới 1,9% (1,2% + 0,7%). Nôm na là Bắc Kinh khó làm mưa làm gió trên một thị trường mà thị phần của mình chỉ có chưa đầy 2%.... Vậy mà nước Mỹ cứ rên như sắp bán hết gia sản cho Trung Quốc vì bị nhập siêu nặng!

Hay là "đại bá" gặp "đại điếm"?

Sang chuyện nợ nần....

Bộ Ngân khố Mỹ cho biết là tính đến hôm 11 vừa qua, Hoa Kỳ mắc nợ 14,588 tỷ đô la, trong đó 4.667 tỷ là công quyền nợ nhau. Phần nợ công chúng trong và ngoài nước là 9.921 tỷ. Nếu Thiên triều có nắm 1.200 tỷ trong số nợ ấy thì cũng chỉ là 12,1%. Chủ nợ lớn nhất thật đấy, nhưng chỉ cỡ một phần tư số nợ của công chúng Mỹ (46%)!

Mà khách nợ càng luống cuống thì Mỹ kim càng mất giá làm chủ nợ càng lỗ.

Ngân hàng Trung ương Mỹ thông báo hôm Thứ Ba mùng chín là sẽ giữ lãi suất gần số không hiện nay cho tới năm 2013 (sau bầu cử!) và thị trường nói đến một đợt gia tăng mức lưu hoạt có định lượng (quantitative easing) thứ ba. Cổ phiếu Mỹ bèn tăng vọt, Mỹ kim mất giá và Thiên triều mất ngủ! Vậy mà hôm sau Bắc Kinh còn thả cái phà Thi Lang để uy hiếp lân bang! Rõ khỉ.

Nếu lùi lại nhìn trên toàn cảnh, có lẽ, ta đang chứng kiến một vụ lịch sử sang trang - trong tiếng thở dài ồn ào về sự suy tàn của nước Mỹ! Đúng là chuyện Hoa-Mỹ làm ta hoa mắt....

30 Jul 2011

I was 25

Today is my birthday. In 25 years ago, I was born in Nghe An province which a land has a harsh climate. I tried to study, I was graduate a university in Ha Noi, and now I have a work. When I was 15 years old, I have made myself a target that I will earn enough money for my living when I am 25. Till now, I did not complete.
What's my way?

29 Jul 2011

Tiền đồng Việt Nam (VND) đang ở đâu và sẽ đi về đâu?


Trần Đông Chấn

Những số liệu được công bố cho biết trong 3 năm từ 2005 đến 2007 tăng trưởng GDP của Việt Nam là 27% (tạo ra thêm khoảng 434 ngàn tỷ đồng giá trị sản phẩm quốc nội) nhưng lượng cung tiền lại tăng tới 135%. Điều này có nghĩa rằng nhà nước đã phát hành thêm một lượng tiền lớn hơn gấp nhiều lần trị giá của cải mà xã hội làm ra được trong 3 năm trên. Nếu lượng tiền đó được lưu thông hết vào thị trường thì sẽ tạo ra khả năng lạm phát lên đến 80% trong quãng thời gian này.

Thế nhưng con số lạm phát danh nghĩa từ 2005 đến 2007 đã được công bố là 27,6% (2005: 8,4%, 2006: 6,6%, 2007: 12,6%), như vậy ...

mức độ lạm phát thêm 52,4% nữa sẽ có thể xảy ra bất kỳ lúc nào từ đầu năm 2008 trở đi. Nếu loại trừ các yếu tố lạm phát không do tiền tệ (giá đầu vào tăng, kỳ vọng của người dân, v.v...) trong con số 27,6% nêu trên thì mức độ lạm phát tiềm tàng còn cao hơn 52,4% nhiều. Con số này chưa xảy ra vào cuối năm 2007 nghĩa là có trên 600 ngàn tỷ đồng (tương đương 52,4% GDP của năm 2007) đã được phát hành nhưng đang bị ghim giữ bởi một số cá nhân và tổ chức nào đó chưa đẩy vào lưu thông trong thị trường.

Tiền đồng đang ở đâu?

Người dân Việt Nam không có thói quen giữ tiền đồng làm dự trữ an toàn, trong tình hình lạm phát tăng nhanh thì biện pháp này lại càng không được lựa chọ̣n. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì luôn trong tình trạng cần vốn, phải đi vay. Các ngân hàng thương mại không có lý do gì cầm giữ một lượng tiền đồng lớn mà không cho vay ra để phải gánh chịu lãi suất huy động trừ các khoản dự trữ bắt buộc. Khả năng duy nhất là một lượng lớn tiền đồng đang bị ghim giữ bởi các quỹ đầu cơ (hedge fund) buôn chứng khoán tại Việt Nam.

Cuối năm 2006 đến cuối năm 2007, đô-la Mỹ bị mất giá mạnh trên thị trường thế giới, lãi suất của nó liên tục giảm; trong thời gian đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách duy trì tỷ giá tiền đồng thấp; đầu năm 2007 nước ta chính thức gia nhập WTO. Vậy là đã hội đủ các yếu tố cần để tạo thời cơ tuyệt vời cho bầy thú điện tử sừng mềm – cách gọi của Thomas Friedman dành cho các quỹ đầu cơ tài chính trong thời đại toàn cầu hóa – tấn công trục lợi nhanh tại Việt Nam. Các hedge fund mau chóng được thành lập và huy động vốn bằng đô-la Mỹ với lãi suất thấp để đầu cơ vào Việt Nam.

Những tháng cuối 2006 đến 2007 các quỹ này đã rót khoảng 160 ngàn tỷ đồng (tương đương với 10 tỷ đô-la Mỹ) vào thị trường chứng khoán, bơm giá cổ phiếu tăng đến chóng mặt, tạo ra một ma lực cuốn hút người dân đổ tiền vào cổ phiếu. Ước tính đã có hơn 350 ngàn tỷ đồng bị hút vào chứng khoán từ nguồn tự có, vay mượn và thế chấp của người dân. Giá cổ phiếu ít thì tăng vài ba lần, nhiều thì đến vài chục lần, vượt xa hoàn toàn khả năng tạo ra giá trị thực tế của nó.

Khi mọi người đã đạt đến cơn say ghim giữ cổ phiếu bởi giấc mộng làm giàu nhanh thì tai họa ập xuống. Nhưng tai họa không chỉ đến một lần. Mỗi khi các cổ phiếu được đầu cơ bị bán ra ồ ạt để thu lợi, chỉ số chứng khoán sụt giảm thì ngay sau đó sẽ xuất hiện những thông tin hỗ trợ từ chính phủ, từ nước ngoài và được tuyên truyền quá nhiệt tình bởi các phương tiện truyền thông đại chúng chính thống. Người dân lại được hâm nóng bằng những hy vọng mới, bầy thú tiếp tục nhồi tiền làm mồi nhử, cổ phiếu lại lên giá, dân lại hồ hởi mua vào. Cái vòng xoáy hút – nhồi ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt năm ngoái đến nay. Tiền trong dân tuôn ra ngày càng nhiều, guồng máy hút – nhồi này lại càng tăng công suất, các ngân hàng trong nước càng nhiều nguy cơ.

Kết quả cuối cùng như thế nào thì giờ đây ai cũng thấy, nhưng thật đáng tiếc là chính phủ vẫn không chịu nhìn thấy, vẫn tiếp tục bị thao túng bởi những kẻ cơ hội để ra những quyết sách tiếp tay cho bầy thú điện tử. Tổng công ty SCIC dễ dàng tuôn ra 5 ngàn tỷ đồng để gọi là “cứu” chứng khoán nhưng thực tế là giúp cho những con thú điện tử bán ra những cổ phiếu sắp chết để mua vào những cổ phiếu có tiềm năng thực với giá rẻ mạt, chuẩn bị cho một sự thâu tóm.

Còn nhớ vào đầu năm 2007, khi mà chứng khoán đang trong giai đoạn bị làm giá bởi bầy thú để đầu cơ trục lợi, đã có ý kiến đề nghị SCIC nhanh chóng bán ra số lượng cổ phần của các công ty niêm yết mà tổng công ty này đang nắm giữ để giảm sốt cho thị trường, tăng lượng tiền dự trữ của chính phủ để dự phòng cho người dân đang bị cơn say ma lực. Là một cổ đông lớn nhất trên thị trường, nắm giữ một lượng lớn cổ phiếu của rất nhiều các công ty niêm yết có trị giá vốn hóa đến gần 50 ngàn tỷ đồng vào lúc cao điểm, SCIC hoàn toàn đủ sức làm đối trọng để chống những hành vi lũng đoạn thị trường, làm cho nó phát triển lành mạnh. Nhưng họ đã hoàn toàn bất động, trái hẳn với sự năng động xông vào “cứu” chứng khoán vừa rồi.

Giờ đây, khi mà hàng triệu người đã trở về với “cái máng lợn” thì những con thú điện tử sừng ngắn đã tích lũy được những khoản lời kếch xù, ít thì cũng bằng số vốn bỏ vào, nhiều phải đến một vốn bốn lời. Ngược lại, giá trị tài sản của SCIC đã bốc hơi đến vài chục ngàn tỷ đồng, thế nhưng họ vẫn đang tiếp tục “ôm” vào những cổ phiếu sắp chết. Hiện nay các chỉ số chứng khoán đã lùi về thấp hơn mức trước khi bầy thú tham gia vào thị trường, điều này đồng nghĩa với mấy trăm ngàn tỷ đồng không tự mất đi mà chỉ được dịch chuyển từ túi người dân và túi nhà nước vào túi bầy thú.

Các quỹ đầu cơ này đang kiểm soát một lượng tiền đồng khoảng 500 ngàn tỷ và được giữ tại các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam trong khi mức dự trữ trong dân đang dần cạn kiệt. Và đây chỉ mới là khúc dạo đầu của một kế hoạch. Sau giai đoạn chứng khoán bị làm giá rồi rơi tự do, sẽ đến giai đoạn tiền đồng bị làm giá. Đồng tiền quốc gia của 86 triệu dân đã bắt đầu bị lũng đoạn.

Tiền Đồng VNĐ đi về đâu?

Để hỗ trợ cho đầu tư nước ngoài tăng vọt trong năm 2007, ngân hàng Nhà nước đã được lệnh phát hành thêm tiền đồng vượt mức an toàn để mua đô-la Mỹ. Lý thuyết này sẽ khả thi nếu như nền kinh tế trong nước hấp thụ được lượng vốn ngoại đưa vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh làm ra thêm của cải cho xã hội, dòng vốn được lưu thông thì ngân hàng Nhà nước dễ dàng hút tiền đồng về nhanh chóng để tránh lạm phát. Nhưng sẽ thật là mạo hiểm và vô trách nhiệm khi những nhà quản lý vĩ mô không nhìn ra và tiên liệu những tình huống ngược lại như thực tế đã diễn ra.

Áp dụng cách thức này trong lúc các điều kiện cần để tạo ra thời cơ tuyệt vời cho bầy thú điện tử đầu cơ đã hội tụ, chính là đưa đến điều kiện đủ cho một cuộc tấn công lũng đoạn có thể bắt đầu. Có nhiều chỉ trích rằng ngân hàng Nhà nước đã không tích cực hút tiền về nên làm lạm phát mạnh, nhưng cần hiểu là không thể thực hiện được điều đó khi mà chính ngân hàng Nhà nước đã tự đặt mình vào bẫy, để quyền điều tiết tiền đồng cho bầy thú kiểm soát.

Luồng vốn đầu tư gián tiếp tập kích ồ ạt vào chứng khoán nhưng hầu như chẳng được đưa vào đầu tư thực sự, nó chạy lòng vòng từ người này qua người khác theo cái vòng xoáy hút – nhồi để cuối cùng quay trở lại túi của bầy thú với trị giá được nhân lên nhiều lần. Các doanh nghiệp niêm yết huy động vốn xong lại tiếp tục đổ vào chứng khoán, chẳng có bao nhiêu tiền từ nguồn này được đưa vào đầu tư mở rộng kinh doanh tạo thêm sản phẩm cho xã hội.

Rất nhiều các lãnh đạo doanh nghiệp niêm yết vô trách nhiệm còn tiếp tay cho bầy thú điện tử lừa cổ đông để cùng hưởng lợi. Một tỷ lệ nhỏ tiền văng khỏi vòng xoáy của bầy thú, vào túi những kẻ tiếp tay. Số vốn này cuối cùng được đầu cơ vào bất động sản hoặc được cất giữ an toàn tại ngân hàng nước ngoài. Còn luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm 2007 chỉ thực hiện được một phần tư so với đăng ký do những rào cản hành chính, yếu kém hạ tầng và thiếu thốn nguồn nhân lực được đào tạo. Triển khai đầu tư chậm, dòng vốn lưu thông ì ạch thì tiền đâu mà ngân hàng Nhà nước hút vào.

An sinh của gần 86 triệu dân hiện nay đang phụ thuộc hoàn toàn vào sự rộng lượng của “những con sói”. Nếu vài trăm ngàn tỷ đồng đang bị ghim giữ được tung ra đổi thành đô-la Mỹ thì lạm phát sẽ đẩy người dân đến thảm họa. Lượng đô-la này nếu bị đảo chiều – chuyển ra khỏi Việt Nam – thì toàn bộ dự trữ ngoại hối của quốc gia sẽ bốc hơi trong tích tắc nhưng cũng chỉ là muối bỏ bể trước sự thâm hụt cán cân thanh toán và thương mại quốc tế trầm trọng. Một cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất không thua gì vụ giá–lương–tiền hồi giữa thập niên 80 của thế kỷ trước sẽ nổ ra ngay sau đó. Tiền đồng – VND sẽ mất giá và rơi tự do.

Ngay đầu năm 2008, rất nhiều các chuyên gia và tổ chức nước ngoài đệ trình lên chính phủ các giải pháp nâng giá tiền đồng so với đô-la Mỹ, thắt chặt tiền tệ, gia tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát. Các giải pháp này lẽ ra đã phải được khuyến nghị để thực hiện từ giữa 2006 nhằm chống nguy cơ tấn công của bầy thú điện tử trước khi gia nhập WTO, giảm tăng trưởng ảo của nền kinh tế, kiểm soát lạm phát để kéo dần lãi suất ngân hàng xuống nhằm thúc đẩy đầu tư cho sản xuất kinh doanh thực thụ, nhờ đó nền kinh tế sẽ được tăng trưởng dần theo hướng có chất lượng bền vững.

Thật tiếc rằng các giải pháp vĩ mô trong 2006 – 2007 đi theo hướng hoàn toàn ngược lại, các nguy cơ không những không được tháo gỡ mà còn bị làm cho trầm trọng hơn. Chiến lược tăng trưởng nhờ thu hút đầu tư nước ngoài để gia tăng xuất khẩu đã ngăn cản việc nâng giá tiền đồng hợp lý nhằm gia tăng sức mua và nhu cầu nội địa – tức là gia tăng mức sống của người dân, một yếu tố quan trọng để tăng trưởng bền vững.

Việc duy trì tiền đồng yếu trong lúc đô-la Mỹ mất giá trung bình khoảng 20% so với các ngoại tệ khác trên thế giới chỉ tạo ra những sức hút ngắn hạn cho các nhà đầu tư nước ngoài khai thác lợi thế giá rẻ nhờ bảo hộ tỷ giá của nhà nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh nhưng đa số là nhập khẩu nhanh những công nghệ lạc hậu vào Việt Nam rồi khai thác nhân công giá rẻ, nguyên liệu rẻ để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng lợi lớn, lợi kép nhờ tỷ giá. Những khoản lợi nhuận này được để bên ngoài Việt Nam bằng cách khai tăng giá nhập thiết bị và vật tư phục vụ xuất khẩu (thuế suất nhập khẩu bằng 0 hoặc rất thấp). Giá trị còn lại trong nước chỉ là tiền công và nguyên liệu rẻ mạt, đi kèm với môi trường bị hủy hoại do công nghệ lạc hậu, và sự suy yếu sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.

Đã có những cảnh báo về các nguy cơ rối loạn kinh tế lẫn xã hội nếu luồng vốn ngoại không cân đối làm suy yếu nội lực trong nước. Nhưng sự tuyên truyền ầm vang không mệt mỏi của các phương tiện thông tin đại chúng ca ngợi sự tăng trưởng ngoạn mục của đầu tư nước ngoài, tô hồng viễn cảnh sáng sủa của nền kinh tế đã át hẳn những tiếng nói co´ trách nhiệm. Dân chúng tránh sao được sự ảo tưởng và rơi vào vòng xoáy ma lực. Nhiều đề xuất, khuyến nghị chính phủ cần xem xét lại chính sách thúc đẩy xuất khẩu kiểu này nhưng kết luận cuối cùng là càng phải tăng mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu.

Nhưng sự thật trớ trêu là càng xuất khẩu kiểu đó thì nhập siêu càng lớn. Lý do là sức mua của toàn dân sụt giảm nghiêm trọng do tỷ giá tiền đồng thấp hơn thực tế, mà nhu cầu thì ngày càng tăng lên. Trong khi đó lại hoàn toàn thiếu vắng các chính sách hỗ trợ cho việc đáp ứng các nhu cầu nội địa, biểu thuế suất nhập khẩu hàng ngàn mặt hàng (đặc biệt là nông sản) giảm xuống do gia nhập WTO. Lượng nhập khẩu tăng lên là đương nhiên để đáp ứng các nhu cầu trong nước. Giá nhập khẩu cũng phải tăng mạnh do 2 tác động kép của tỷ giá tiền đồng thấp và giá cả thế giới tăng.

Nhập siêu 2007 phi mã đến 12,5 tỷ đô-la Mỹ (hơn 2,5 lần mức 2006) là vẫn còn may mắn. Nếu dầu thô thế giới không tăng giá để mang thêm về cho Việt Nam gần 2,5 tỷ đô-la Mỹ (40 ngàn tỷ đồng) từ xuất khẩu trong 2007 thì tình hình sẽ còn tồi tệ hơn nhiều. Thế nhưng người dân đã không được hưởng gì từ khoản thặng dư của tài nguyên quốc gia này sau khi chính phủ quyết định cắt bỏ 10 ngàn tỷ đồng bù giá xăng dầu trong nước. Sức mua của người dân bị ép giảm sút nặng nề để tăng lợi thế cho đầu tư nước ngoài và xuất khẩu mà ở đó chỉ một nhóm nhỏ các nhà xuất khẩu, chủ yếu từ nước ngoài hưởng lợi.

Giờ đây khi mà tiền đồng đã mất giá thực sự do lạm phát tiền và nội lực trong nước suy kiệt thì các giải pháp nâng giá tiền đồng lại được thực hiện. Lại một cái bẫy. Quyền lợi lại thuộc về nước ngoài. Đầu tháng 3/2008 ngân hàng Nhà nước mới yêu cầu tăng dự trữ bắt buộc lên thêm 1% (tương đương khoảng 10 ngàn tỷ đồng) và phát hành tín phiếu bắt buộc trị giá 20,3 ngàn tỷ đồng; chỉ hút hơn 30 ngàn tỷ đồng mà đã làm cả hệ thống tài chính ngân hàng điêu đứng, náo loạn đua nâng lãi suất để động viên người dân chuyển đổi ngoại tệ thành tiền đồng gửi vào ngân hàng. Tiền đồng trở nên khan hiếm, đô-la Mỹ bị mất giá.

Người dân lại bị cuốn hút vào một cuộc chơi mới của bầy thú điện tử. Các quỹ đầu cơ này đang cần đổi tiền đồng sang đô-la Mỹ, một tỷ giá đô-la Mỹ thấp sẽ rất có lợi cho họ. Tiền đồng bị siết chặt, biên độ tỷ giá đô-la Mỹ được nới lỏng. Đô-la Mỹ rơi xuống gần 15,5 ngàn đồng/USD nhưng bán cũng không ai mua. Trong tuần thứ ba của tháng 3/2008 này bầy thú điện tử đã tung hơn 30 ngàn tỷ đồng để mua vào khoảng 2 tỷ đô-la Mỹ. Ngay lập tức lạm phát gia tăng thêm 3%, đạt mức kỷ lục 9.2% trong chưa đầy 3 tháng đầu năm 2008. Cùng lúc, các ngân hàng chuẩn bị giảm lãi suất huy động.

Cái vòng xoáy hút – nhồi, tăng lên – giảm xuống sẽ được lặp lại nhiều lần như chứng khoán, đến khi mà bầy thú đã nắm trong tay một lượng lớn đô-la Mỹ thì sức mua của tiền đồng sẽ rơi tự do không phanh. Chỉ số giá tiêu dùng CPI sẽ tăng thêm cỡ 50% nữa, con số này chưa bao gồm những tác động của việc tăng giá đầu vào và sự mất niềm tin của dân chúng. Yếu tố niềm tin này có thể dẫn đến sự sụp đổ không ai có thể lường hết được, nó sẽ vượt quá nhiều lần mọi tính toán kỹ thuật nếu như người dân nhận ra mình đã bị lừa.

Thâu tóm và thôn tính

Nhưng mục tiêu của bầy thú không chỉ đơn giản như vậy. Bây giờ có lẽ chính phủ đã nhận ra được những nguy cơ của lạm phát sẽ tác động khủng khiếp thế nào đến sự bất ổn xã hội. Nếu không muốn cuộc khủng hoảng này bùng nổ ngay trong năm 2008, chính phủ phải thương lượng mua lại khoản tiền đồng khổng lồ của bầy thú. Quá trình thâu tóm đang bắt đầu.

Nhưng tiền đâu để mua khi mà dự trữ ngoại hối của quốc gia quá yếu ớt. Ngay cả có huy động được mọi nguồn lực để có đủ số tiền này thì bầy thú sẽ nói họ không cần đô-la Mỹ vì họ có thể mua nó dễ dàng từ thị trường. Họ muốn quyền kiểm soát các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những tập đoàn được hưởng đặc quyền và đầy lợi thế của nhà nước. Các doanh nghiệp này đã được bảo hộ chặt chẽ trong các điều khoản gia nhập WTO để không chịu sức ép cạnh tranh lớn khi hội nhập. Nhưng giờ đây chúng sẽ được trao quyền kiểm soát chi phối bằng sở hữu đa số thông qua các hiệp định song phương đang được đàm phán vội vã.

Dân chúng đừng vội mừng vì hy vọng vào sự tốt lên của các doanh nghiệp này sau khi có bàn tay của nước ngoài. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy trong một đất nước mà thiếu vắng các chiến lược để tạo ra lợi thế quốc gia trong một hệ thống toàn cầu hóa, và nguồn nhân lực thì thiếu kỹ năng được đào tạo đúng mức, cộng với tham nhũng chi phối các chính sách nhà nước thì bầy thú điện tử sẽ chỉ dùng các doanh nghiệp khổng lồ trong nước được bảo hộ để khai thác thị trường nội địa, buộc người dân phải trả giá cao để có siêu lợi nhuận. Hiệp hội các nhà sản xuất ô-tô (VAMA) vừa vận động nâng thuế nhập khẩu xe hơi để “chống nhập siêu” là một minh chứng cụ thể cho việc đó.

Áp lực đang được gia tăng lên rất mạnh để các điều khoản đảm bảo cho việc thâu tóm dễ dàng đạt được. Bầy thú đang nhả tiếp tiền đồng ra đổi lấy đô-la Mỹ khiến nó lên giá, lạm phát tiếp tục tăng vọt. Trong tình hình này có lẽ những điều kiện cần để thâu tóm sẽ phải hoàn tất trong vòng trên dưới 2 tháng nữa. Từ nay đến đó chứng khoán sẽ tiếp tục hoành hành để gây rối và gia tăng áp lực đàm phán. Đến khi mọi việc được ký kết thì tới lượt bất động sản sẽ được thổi bùng lên, giá trị thật giá trị ảo sẽ lại điên loạn lên một lần nữa – một cuộc chơi mới theo bài cũ. Nó sẽ tạo ra bất ổn đến cuối năm, không chỉ để trục lợi mà còn nhằm lũng đoạn dễ dàng các chính sách vĩ mô để phục vụ cho những kế hoạch tiếp theo.

Nhà nước nếu không cẩn thận thì sẽ bị những kẻ cơ hội tiếp tục thao túng để bơm ra lượng tiền đồng khổng lồ đã thu hồi về nhờ bán rẻ tài sản toàn dân. Trong lúc rối ren, thật giả lẫn lộn thì không khó gì để viện ra những lý do nghe xuôi tai để làm được việc ấy. Lúc đó sẽ không còn gì có thể cứu vãn được nữa. Đó chính là sự kết thúc.

Nhưng đấy cũng là khởi đầu của sự thôn tính.